Tao Đàn Năm Xưa
Tùy Bút Âm Nhạc
Đặng Kim Hiền ©2023
Một Luồng Gió Mới
Từ nhỏ tôi đã có cái tính mê những gì có vần, có điệu. Mấy bài thơ và ca dao trong sách tập đọc là thứ tôi thuộc nằm lòng. Cái máu mê này chắc là từ huyết quản của má tôi truyền sang. Thế hệ ba má tôi ở miền Bắc, nhiều người không đọc chữ được nhưng lại có thể mở miệng là ứng khẩu ra thơ lục bát. Má tôi cũng vậy, chưa từng được đi học ngày nào, nhưng bà thuộc nhiều thành ngữ, tục ngữ, thơ của các ông cậu và thuộc cả nhiều đoạn trong truyện Kiều. Mỗi lần ‘đọc thơ’ cho tụi tôi nghe, bà đâu có đọc như bình thường mà lên xuống giọng rất là điệu nghệ, gần như nói sử trong Chèo hay nói lối trong Cải Lương vậy. Từ mê vần, mê điệu, tôi dần dần thành đứa mê hát, mê ngâm. Bởi vậy, những khi được nghe các nghệ sĩ ngâm thơ với đờn sáo phụ họa thiệt sự là những giây phút thần tiên trong thời tuổi nhỏ của tôi.
Sau này tôi mới biết mình được hưởng những giờ phút thơ nhạc ru hồn như vậy là nhờ công lao của hai “ơn nhơn”: Thi sĩ Đinh Hùng và nhạc sĩ Tô Kiều Ngân. Họ là hai sáng lập viên của Chương trình Thi Văn Tao Đàn trên làn sóng điện của Đài Phát thanh Sài Gòn năm 1955. Trong thời gian 20 năm đem thơ hòa vào nhạc, các nghệ sĩ trong chương trình này đã thổi một luồng gió mới, một phong cách mới vào nghệ thuật ngâm thơ Việt: Đó là lối ngâm thơ Tao Đàn.
Duyên Bắc Tình Nam Trong Tiếng Thơ
Ngâm thơ là một nghệ thuật thuần Việt cổ xưa. Tiếng Việt có sẵn nhiều nhạc tính, nói điệu hơn một tí là đã gần như hát. Người Việt xưa hễ có thơ là cứ “hát” chớ đâu cần nhạc sĩ phổ nhạc. “Ngâm” thực ra là một lối hát không bị gò bó trong nhịp điệu. Gần gũi và bình dị nhứt là các điệu ru con, là những câu ca dao quen thuộc được ngâm theo các mẫu giai điệu ở từng vùng. Lối ngâm Tao Đàn được xem là “trẻ tuổi” nhứt, có gốc rễ từ những giai điệu mượt mà Quan họ, từ lối nói sử Nam thong thả đậm đà trong Hát Chèo và lối ngâm các “mưỡu” với nhiều luyến láy và đổ hột tỉ mỉ trong Ca Trù.
Chương trình Tao Đàn là nơi tụ hội của những danh tài thơ nhạc từ ba miền: Đinh Hùng (nhà thơ), Thanh Nam (nhà thơ), Hồ Điệp (ngâm), Thái Hằng (ngâm), Ngọc Bích (piano), Phạm Đình Chương (piano), Ngô Nhật Thanh (đờn bầu) … từ đất Bắc, Tô Kiều Ngân (ngâm, sáo), Hồng Vân (ngâm), Vĩnh Phan (đờn tranh, tỳ bà), Bửu Lộc (đờn tranh, tỳ bà)… từ xứ Huế, Nguyễn Đình Nghĩa (sáo) từ Đà Lạt, và Đoàn Yên Linh (ngâm), Hoàng Oanh (ngâm) từ miền Nam. Có lẽ sự hội tụ của các nghệ sĩ từ nhiều miền khác nhau trên đất Sài Gòn đã tạo cơ hội cho họ cùng nhau góp sức tạo nên một phong cách ngâm mới kết hợp các yếu tố ngôn ngữ và âm nhạc từ nhiều miền trên đất nước.
Lối ngâm thơ Tao Đàn có ba đặc điểm chính:
- Thường phát âm theo giọng Bắc, nhưng cũng có thể phát âm theo giọng địa phương.
- Giai điệu lấy hơi Oán của nhạc miền Nam làm cốt lõi.
- Căn bản là Oán nhưng các nghệ sĩ thường khéo léo pha thêm chút ít hơi Nam nhạc Huế và Bồng Mạc.
Phát âm theo giọng Bắc: Cũng như các ca sĩ tân nhạc cùng thời, các giọng ngâm trong Chương trình Tao Đàn dùng giọng Bắc trong phát âm từ ngữ. Đây là điều tự nhiên đối với những người gốc Bắc, nhưng các giọng ngâm người gốc miền Trung (Tô Kiều Ngân, Hồng Vân) hay miền Nam (Đoàn Yên Linh, Hoàng Oanh), họ cũng phát âm theo giọng Bắc rất tự nhiên. Tô Kiều Ngân và Hồng Vân cũng ngâm một số bài với phát âm giọng Huế (nhất là các bài thơ về Huế).
Trong bài viết của ông Phạm Công Luận (2017) về ngâm Tao Đàn có cụm từ “tiếng ngâm thơ giọng Bắc”[i] chỉ có nghĩa là phát âm từ ngữ kiểu người Bắc chớ không mang nghĩa là “ngâm lối Sa mạc của miền Bắc” như một vài bạn trẻ hiểu lầm. Có em kia hỏi tôi, sao cô nói Tao Đàn hơi Oán mà con nghe họ ngâm giọng Bắc? Tôi phải đi một đường giải thích: Thời tân nhạc mới bắt đầu, đa số nhạc sĩ và cả ca sĩ là người Bắc. Khi tiếng hát lời ca đến miền Nam, người ở đây cũng quen nghe như vậy. Đa số ca khúc tân nhạc đều phát âm giọng Bắc (trừ một số bài có tính cách địa phương). Các ngâm sĩ người Bắc cũng thế, họ cất lên giọng Bắc mà pha hồn nhạc Nam nghe thiệt là hấp dẫn!
Hơi Oán miền Nam là nền tảng: Những ai có hiểu biết về nhạc miền Nam đều cảm nhận hơi Oán rất rõ ràng qua các giọng ngâm cũng như tiếng sáo. Ta có thể nghe rất rõ các chữ Y và Oan muồi mẫn kiểu Tứ Đại Oán thấm đẫm giọng thơ Tao Đàn, khác hẳn các câu nhạc nhẹ nhàng của Sa mạc và Bồng mạc.
Trong các sách dạy thổi sáo và ngâm thơ, hai nhạc sĩ từng tham gia diễn tấu trong Chương trình Tao Đàn là Tô Kiều Ngân và Nguyễn Đình Nghĩa cũng xác định yếu tố cơ bản của lối ngâm này. Tô Kiều Ngân (2002, 2005) viết rõ rằng “điệu ngâm Tao Đàn theo hơi Oán miền Nam”[ii]. Nguyễn Đình Nghĩa (2000) cũng xác định “Hơi sáo Tao Đàn tức là hơi Oán miền Nam” và còn đề nghị thêm là thay vì gọi là “câu sáo Tao Đàn” thì nên gọi một cách chính xác hơn là “câu sáo hơi Oán miền Nam”[iii]. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Nghĩa cũng trình bày rõ sự khác biệt giữa lối ngâm Tao Đàn (hơi Oán) với Sa Mạc hay ngâm Huế qua thang âm điệu thức.
Việc chọn hơi Oán cho lối ngâm mới trong Chương trình Tao Đàn có lẽ bắt nguồn từ ý thức muốn tạo một tiếng thơ giàu âm hưởng ngọt ngào địa phương tính để chinh phục trái tim và đôi tai của thính giả toàn miền Nam. Các nhà thơ, và nhiều ngâm sĩ trong chương trình này vừa từ Bắc vào Nam nhưng họ hiểu rằng nếu chỉ cứ giữ đúng lối ngâm từ miền Bắc như Sa Mạc, Ca Trù hay Chèo, thì khó thu hút được đông đảo người nghe. Chính hồn nhạc phương Nam trong những vần thơ Tao Đàn đã giúp chương trình vừa ra đời lại có thể chinh phục lòng người từ Sài Gòn thời đó.
Tuy lấy hơi Oán làm căn bản, nhưng giai điệu của câu nhạc có thể uyển chuyển pha thêm âm điệu của những hơi khác: Lối ngâm Oán trong Tao Đàn có kết hợp nhiều hơi điệu gốc khác, nhiều nhứt là hơi Nam nhạc Huế. Cô Hồ Điệp thường pha thêm nét nhạc của Bồng mạc/Ru con, cô Hồng Vân pha Huế nhiều hơn và giọng ông Tô Kiều Ngân thì chất Huế đậm thêm chút nữa.[iv]
Giáo sư Trần Văn Khê từng xác nhận: “Cả ba miền đều có cách ngâm thông dụng là ngâm Tao Đàn… Cùng một cấu trúc âm thanh, một hệ thống thang âm, nặng về hơi Ai Oán, nhưng thanh giọng phải giữ theo nét đặc biệt của mỗi vùng”.[v] Ý của giáo sư rõ ràng là: Cho dù có phát âm bằng giọng của vùng miền nào, thì cái chất hơi Oán này cũng nằm trong âm điệu của Tao Đàn. Ông viết “nặng”(về hơi Ai, Oán), có nghĩa là “nghiêng về”: Tuy hơi Oán giữ phần chính trong giai điệu, nhưng việc pha thêm chút ít những hơi khác là một đặc tính độc đáo của lối ngâm này. Xin nhấn mạnh là chuyện này khác với cách cố ý chuyển hẳn một hay nhiều đoạn thơ sang một hơi khác (thường là chuyển sang Sa mạc hay Bồng mạc/Ru Con).
Lối ngâm Tao Đàn mới mẻ, quyến rũ và ngọt ngào hồn phương Nam nên rất hấp dẫn người nghe thời đó. Những nghệ sĩ ba miền tụ hội ở Sài Gòn đã thổi một luồng sinh khí mới vào nghệ thuật ngâm thơ đã có từ lâu đời. Hơi Oán của ngâm Tao Đàn thỉnh thoảng được pha với âm hưởng hơi Nam nhạc Huế (thường ở cuối câu thơ, như để bớt vẻ bi ai), có khi pha thêm chút xíu Bồng mạc. Mỗi ngâm sĩ đều khéo léo pha theo kiểu riêng. Khi dựa vào hơi Oán, họ đã tạo ra lối ngâm mới không chỉ quyến rũ được trái tim người miền Nam mà còn chinh phục được thính giả ởnhững miền khác: Người vùng nào cũng thấy có bóng dáng âm điệu của xứ mình trong đó.
Những Giọng Ngâm, Tiếng Đờn, Câu Sáo Năm Xưa
Sự ái mộ của giới thưởng ngoạn thơ ở miền Nam trong những năm 1960 và đầu 1970 đã thúc đẩy việc ghi âm và xuất bản của một số băng đĩa ghi lại giọng ngâm, tiếng đờn, câu sáo của những nghệ sĩ trong Chương trình Thi văn Tao Đàn. Nhờ vậy, những người lớn lên với dòng nhạc này ngày xưa hay những bạn trẻ nào muốn tìm nghe thứ “đồ cổ” mới có dịp sống lại những phút bồi hồi với tiếng thơ, nét nhạc ngày cũ.
Này là tiếng đờn tranh, đờn tỳ của hai cụ Bửu Lộc và Vĩnh Phan luôn mỏng manh nhỏ nhẹ, là những âm sắc không thể thiếu, luôn điểm xuyết vào trong câu nhạc những nét thanh tao. Câu nhạc, tiếng đờn của hai cụ cũng là những khuôn vàng thước ngọc cho thế hệ sau học theo. Này là những tiếng sáo dìu dặt, khoan thai, khi êm ả trìu mến, khi nỉ non tâm sự của hai nhạc sĩ tài ba Tô Kiều Ngân và Nguyễn Đình Nghĩa. Này là tiếng đờn piano của Ngọc Bích hay Phạm Đình Chương trầm bổng nhẹ nhàng tạo một bầu không khí êm ả thân mật cho những giọng ngâm trỗi lên. Bềnh bồng đan xen giữa những dòng nhạc là giọng ngâm truyền cảm của Giáng Hương, Đàm Mộng Hoàn, Hồ Điệp, Hồng Vân, Hoàng Oanh, Tô Kiều Ngân, Hoàng Thư, Nguyễn Thanh, Đoàn Yên Linh, Quách Đàm…
Bà Đàm Mộng Hoàn và cô Hồ Điệp là hai giọng ngâm rất đặc biệt của chương trình. Giới thưởng ngoạn từ những ngày đầu vẫn luôn nhớ giọng mang tính Ca Trù với những nét luyến láy, đổ hột tài tình của bà Đàm, vốn là một ca nhân danh tiếng từ Khâm Thiên ngày nào. Người thứ hai mang những nét Ca Trù vào Tao Đàn là cô Hồ Điệp, cũng xuất thân từ truyền thống gia đình với lối ca ngâm này. Cô Hồ Điệp có làn hơi thanh mảnh, tưởng chừng như rất yếu. Tôi nghĩ, vì cô luyến láy rất tỉ mỉ, có khi dừng lại ở giữa chừng để nắn nót các âm đổ hột[vi], cho nên khi về tới chữ chót thì làn hơi đã đuối,và cô thường dứt câu nhạc rất êm và nhẹ. Tôi lại thích nghe như vậy, vì nhạc tính rất đầy. Cách cô ngân nga các chữ (lời thơ) có tận cùng bằng phụ âm rất đậm chất Việt, vừa uốn lượn tỉ mỉ vừa giữ được “tròn vành rõ chữ” thuần theo cách cổ xưa: Ngậm miệng mà giữ cái nguyên âm (đã ‘đóng’ lại bằng phụ âm) trong cổ rồi ư ử, im ỉm mà ngân nga. Kỹ thuật ngân nga của ca nhơn Huế và các danh ca Tài tử, Cải lương thời giữa thế kỷ 20 cũng tương tợ như thế: Các âm rung tự nhiên được nhẹ nhàng ém vào cổ hay đưa xuống ngực. “Giữ trong cổ mà ngân” là lối ca ngâm thuần Việt. Kỹ thuật của các danh ca thời sau này rất khác: Nếu không ghép thêm một nguyên âm khác để hỗ trợ thì ca sĩ cũng mở miệng nhiều hơn, vừa rung vừa ngân cho vang ra ngoài.
Cô Hồ Điệp không chỉ có chất giọng đặc biệt của các cụ hát Ả Đào xưa, mà cô còn có tài nhả ra những giai điệu lai tạo phong phú. Cô thường không lập đi lập lại vài mẫu, không giữ y một lối, hầu như mỗi câu ngâm là mỗi ý nhạc khác nhau, mỗi bài lại mỗi kiểu, thỉnh thoảng có pha chút hồn xưa phố cũ một cách tài tình. Như các nghệ sĩ khác, cô ngâm đa phần theo hơi Oán, lâu lâu lại đẩy vào tí kết câu kiểu Huế hoặc khéo léo chuyển nhẹ nhàng qua Bồng mạc rồi lại trở về, vì thế mà thành ra một màu sắc hài hòa Bắc Trung Nam vô cùng đặc sắc.
Trái ngược với cô Hồ Điệp, lối ca ngâm của cô Hồng Vân trẻ trung và mạnh mẽ. Nhỏ hơn cô Điệp gần 20 tuổi, giọng ngâm này xuất hiện trong chương trình Thi Văn Tao Đàn năm 1967 như một làn gió lạ. Có chất giọng rất khoẻ, cô Hồng Vân lại có cách ngân rung cho vang hơn nữa nhờ kỹ thuật thêm nguyên âm vào các chữ nhạc “câm” (tức là chữ tận cùng bằng phụ âm, ví dụ chữ “thanh”), để có thể mở miệng mà hát cái nguyên âm cho vang ra: Cách này rất gần với kỹ thuật hát tân nhạc. Cô Hồ Điệp lại không bao giờ ngân nga như thế, khi cô cất giọng là đã thấy rõ cái chất cổ xưa mà tự nhiên, với kỹ thuật ca ngâm rất thuần Việt, còn cách của cô Hồng Vân lại rất mới.
Chương trình Tao Đàn là nơi tụ hội của nhiều giọng ngâm, mỗi người mỗi vẻ, có người lại rất nhiều vẻ. Cô Hồng Vân và Hoàng Oanh đại diện cho những giọng ngâm trẻ thời ấy, vẫn nổi tiếng tới giờ với lối Tao Đàn, hai cô ngâm Sa mạc cũng rất điệu nghệ. Hồng Vân khi thì phát âm giọng Bắc pha chút Huế, khi thì phát âm giọng Huế pha dấu giọng Bắc, nhưng khi ngâm cô vẫn nghiêng về Oán.
Giọng nam Nguyễn Thanh và Quang Minh luôn đỉnh đạc nhẹ nhàng, còn ông Hoàng Thư thì lại có cung cách ngâm mạnh mẽ và kịch tính (ngâm mà như diễn kịch), vô cùng độc đáo. Mỗi người đều có chất giọng và phong cách hoàn toàn khác nhau, họ rất ít khi quẹo sang hơi khác mà giữ nhiều mùi Oán Tao Đàn.
Nhạc sĩ xứ Huế Tô Kiều Ngân là người nổi tiếng với tài ứng ngâm nhiều lối, khi ngâm Tao Đàn ông phát âm cả giọng Huế và Bắc. Khi nghe hai bài thơ sau, chính tôi cũng không nhận ra đấy là cùng một người ngâm:
Sự Đa Dạng Của Các Lối Ngâm Trong Chương Trình Tao Đàn
Cái hay của Chương trình Tao Đàn là sự hiện diện của của các lối ngâm cũ mới nhờ sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ khắp ba miền. Trong những năm đầu của chương trình, tất cả các bài thơ đều được ngâm sống, nghĩa là các ngâm sĩ và nhạc sĩ nhận bài thơ, xem qua xong và hội ý về hơi điệu là trình diễn ngay trong phòng phát thanh chứ không thâu âm trước.
Thế mới biết là những nghệ sĩ này có khả năng ứng tác rất giỏi, họ phân biệt rõ từng lối giai điệu khác nhau, ngâm ra đủ kiểu, nhiều nhứt là lối Tao Đàn, mà cũng có khi ngâm thuần một hơi khác như Sa Mạc, Bồng Mạc hay Huế, tùy theo nội dung hay tính cách của bài thơ. Khi thể hiện bài thơ Giục Giã của Xuân Diệu, cô Hồ Điệp ngâm hoàn toàn theo lối Sa mạc cổ xưa.
Trong bài thơ nội dung có nhiều điển tích sau đây, cô Hồ Điệp chỉ ngâm hai khổ thơ đầu (8 câu) theo lối Tao Đàn, bốn khổ thơ sau (16 câu) cô chuyển sang lối Bồng mạc/Ru Con với nhiều luyến láy và đổ hột rất đặc sắc mang chút âm hưởng của lối Ca Trù cổ xưa.
Bài thơ sau đây giọng Huế rất ngọt, âm điệu tương tợ như bài ca Tương Tư Khúc: Tuy có điểm xuyết chữ Y (nốt Si) của miền Nam rất rõ, nhưng màu sắc nhạc Huế vẫn đậm hơn, có thể gọi là “Huế lai Tao Đàn”.
Pha Điệu, Chuyển Hơi Trong Một Bài Thơ
Ngâm thơ là nghệ thuật rất thanh tao mà cũng phóng khoáng vì có ẩn chứa sự tự do: Không chỉ trong nhịp điệu mà còn ở việc tận dụng nhiều cung bậc. Có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng chỉ ngâm thuần một lối từ đầu tới cuối. Mỗi hơi thường chỉ có vài mẫu giai điệu lập đi lập lại, cho nên khi ngâm bài thơ dài hay các truyện thơ một số nghệ sĩ có khuynh hướng chuyển đổi hơi/điệu cho phong phú. Cách đổi hơi cũng tuỳ nội dung bài thơ, cũng tuỳ phong cách và kinh nghiệm riêng của từng người. Đặc tính này cũng như pha hơi/chuyển hơi trong nhạc Tài Tử/Cải Lương, hay chuyển cung trong nhạc Tây phương.
Có lẽ vì vậy mà anh Trần Quang Hải từng lưu ý các ngâm sĩ, khi đang ngâm Tao Đàn thì không nên chuyển sang hơi khác, giữ nguyên bài thơ một lối ngâm trên hơi Oán sẽ hay hơn. Ý của anh rất đúng nếu như mình nghĩ sâu xa hơn: Khi ngâm Tao Đàn nên giữ hồn, càng ít lai qua hơi khác càng tốt, là để cho cái “mùi Oán” đặc biệt này còn được lưu lại với thời gian. Nhất là những bài thơ ngắn, mà chuyển nhiều hơi thì sẽ đi mất tính đồng nhất của dòng nhạc. Gần đây khi mà âm điệu cũng như ‘tên tuổi’ của Tao Đàn đã phai tàn theo thời gian, tôi mới thực sự thấm thía những lời nhắn nhủ của anh.
Tuy vậy, có những nghệ sĩ dùng cách chuyển điệu đúng nơi đúng chỗ lại làm rõ ý thơ nên nghe hay hơn là ngâm thuần một kiểu. Kỹ thuật này cũng giống như chuyển cung để diễn đạt ý nhạc mới trong nhạc Tây phương. Bài thơ sau khá dài, ngâm theo lối Tao Đàn, phút 4: 20 chuyển sang Sa Mạc (2 câu thơ), phút 8: 53 chuyển sang Ru Con (4 câu thơ).
Cải Lương Cũng Thương Tao Đàn
Lối ngâm Tao Đàn không chỉ giới hạn trong Chương trình Tao Đàn hay trong sinh hoạt thơ văn, mà còn được giới nghệ sĩ vài soạn giả Cải Lương mở rộng tấm lòng tiếp nhận. Thật vậy, chất giọng Ca Trù thanh tao nhỏ nhẹ của cô Hồ Điệp khi nhập vô hồn nhạc miền Nam đã thành ra một thứ “lai” vô cùng đặc sắc và quyến rũ làm cho một nghệ sĩ trẻ nghe cô ngâm mà thao thức nhiều đêm để suy nghĩ ra một nét nhạc mới cho Cải Lương. Người này chính là danh ca Thanh Hải.
Nghệ sĩ Minh Vương kể: “Có lần tôi hỏi từ đâu mà anh có cách ngâm Tao Đàn hay thế? Anh Hải kể, là nhờ cảm xúc bất chợt khi nghe cô Hồ Điệp ngâm. Mỗi tối sau khi nghe radio anh đều đem các đoạn thơ ra ngâm. Tập thuần thục như vậy cả tháng anh mới trình bày với soạn giả Thu An, được chấp thuận anh mới bắt đầu áp dụng trong một số vở đang diễn”.
Sau đó, soạn giả Thu An soạn tuồng cho Thanh Hải đều đặc biệt đưa các đoạn ngâm Tao Đàn vào để cho ông trổ tài. Vở diễn đầu tiên ứng dụng ngâm Tao Đàn là “Chiếc Lá Mùa Thu” (1962). Từ đó, Thanh Hải nổi tiếng như là “Vua Tao Đàn”. Không chỉ vậy, ngâm Tao Đàn còn được gắn vô cả trong lòng câu Vọng Cổ. Theo soạn giả Viễn Châu, cũng chính Thanh Hải là người đã sáng tạo ra cách này:“Ngâm thơ có nhiều lối: Sa mạc, Vân Tiên, Tao Đàn, nhưng ngâm theo lối Tao Đàn âm điệu nghe mượt mà và bay bổng hơn… Thanh Hải là người đầu tiên sáng tạo đưa vào bài ca Cải Lương thành công. Anh kết hợp ca ngâm vọng cổ thuần khiết với ngâm Tao Đàn, không chỉ ở những câu nói lối mà trong lòng câu vọng cổ, vừa mượt mà, trữ tình, nam tính. Có lẽ chất giọng “đồng” của Thanh Hải có âm vực rộng, ca có thanh điệu, âm sắc du dương nên đi vào lòng người nghe, tạo nét mới cho bài Vọng Cổ”[vii].
Thời biết phụ má bán hàng ngoài chợ Bàn Cờ, tôi hay lê la tới một sạp bán truyện thơ dân gian và bài ca Vọng Cổ. Ít khi mua, mà ngồi coi ké hàng giờ, nên tôi còn nhớ rất rõ các chữ ghi trong mấy cuốn bài ca nhỏ tí tẹo, chỉ có vài trang: Nói Lối, Nói Vè, Nói thơ Vân Tiên, Ngâm Tao Đàn, Ngâm Sa mạc…. để chỉ rõ những đoạn trước khi vô Vọng Cổ ngâm theo lối nào. Ngày nay các bản in mới hay các bài ca trên mạng không hiểu sao chỉ ghi chung chung là “ngâm thơ”, chữ “Tao Đàn” đã bị bỏ mất! Có lẽ để cho người ca được tùy chọn lối ngâm chăng?
Tiếng Thơ Tao Đàn Ngân Mãi
Tuy Chương trình Thi Văn Tao Đàn ngưng hoạt động từ giữa thập niên 1970, những nghệ sĩ cũng từ đó phân tán mỗi người mỗi cảnh đời, mỗi ngả, nhưng cái ngôn ngữ thơ nhạc mà họ đã sáng tạo, và nuôi dưỡng vẫn tiếp tục sống trong tiếng thơ của những dòng thơ Việt cho đến ngày nay. Các ca nhân cũ, có người vẫn tiếp tục nhả thơ cho đời, cũng có người bặt tiếng ngân nga, nhưng âm điệu Tao Đàn năm xưa đã và đang được một số nghệ sĩ trẻ hơn kế thừa trong những năm cuối thế kỷ 20. Từ đó tới nay đã có những thế hệ tiếp nối và thành danh. Nghệ sĩ Vân Khanh và Bảo Cường ngâm giọng Huế rất giống nhạc sĩ Tô Kiều Ngân. Lớp trẻ hơn có cô Vân Khánh cũng thường ngâm Tao Đàn giọng Huế. Nổi bật hơn hết là giọng Bắc Tao Đàn của cô Tôn Nữ Lệ Ba, rất đẹp và sắc sảo.
Ngoài các giọng ngâm mới từ miền Trung hay miền Nam như đã nêu trên, một số nghệ sĩ miền Bắc ngày nay cũng mở rộng vòng tay với lối ngâm Tao Đàn. Sau ngày đất nước thống nhất tôi được nghe kể là tiếng thơ Tao Đàn cũng theo làn sóng điện đến tai một số nghệ sĩ miền Bắc từ những ngày đầu của chương trình vào năm 1955. Một ngâm sĩ nổi tiếng ở miền Bắc là cô Vương Hà (thua Hồ Điệp 37 tuổi) cũng thể hiện rõ nét hơi Oán Tao Đàn. Người miền Bắc nào quen với lối ngâm có âm điệu Bồng Mạc sẽ có thể cảm nhận sự hiện diện của cái mùi nồng giọng Oán trong lối ngâm của cô. Một vài người nghe đã nhận xét trên mạng rằng: “Nghe giọng cô Hà khác hẳn các người ngâm cùng thời!”, hay “Sao độ rày cô Vương Hà lại ngâm kiểu “tuồng”, nặng mùi Cải lương thế nhỉ!”
Tao Đàn Chỉ Là Một Cái Tên?
Gần đây khi lang thang trên mạng để nghe thơ, tôi tình cờ ghé qua một kênh có video dạy ngâm thơ cổ. Có người dạy, chắc cũng có những bạn trẻ thích tìm học nghệ thuật này, thật đáng mừng. Tuy nhiên, trong một video khác, vị thầy trẻ này viết bình luận khẳng định rằng “Không có lối ngâm nào tên là Tao Đàn”, với lý luận và “chứng cớ” như sau:
- Chữ Tao Đàn vốn là tên của hội thơ đời nhà Lê, ban ngâm thơ ở đài Sài Gòn chỉ mượn chữ đó để đặt tên cho chương trình mà thôi.
- Trong chương trình Tao Đàn, các nhà thơ người gốc Bắc, và các giọng ngâm cũng người miền Bắc, nên họ cũng chỉ ngâm theo lối ngâm thơ cổ (như trong Chèo và Ca Trù), chủ yếu là Sa Mạc.
- Sau này lối ngâm thơ của chương trình Tao Đàn (tức chỉ là ngâm Sa mạc) được đưa vào trong các vở Cải Lương trước và đặc biệt sau 1975, cho nên mọi người cứ nghĩ là có điệu ngâm mới, thật ra không có cái gọi là lối “Ngâm Tao Đàn”.
- Cô Hồ Điệp ngâm trọn bộ Truyện Kiều cũng chỉ với lối Sa Mạc và Bồng Mạc.
Đọc những lời như thế, tôi thật tiếc cho vị thầy trẻ này. Đã bỏ công học rồi lại dạy ngâm thơ, quả là đáng quý, nhưng nói về lối ngâm Tao Đàn như vậy thiệt tình không ổn chút nào. Có lẽ anh chưa hiểu hết, và nghe chưa kỹ tiếng thơ Tao Đàn chánh gốc của những năm 55-75. Anh có lẽ cũng chưa nắm được âm luật của hơi Oán miền Nam (và cả những hơi khác) để cảm nhận sự khác biệt giữa Tao Đàn và Sa Mạc/Bồng Mạc.
Thế hệ trẻ độ rày tự tin là mình rất thông tuệ, nhờ có phương tiện đầy mình nên tin tưởng là chỉ “gúc-gồ” tìm một phát, dùng ứng dụng trí tuệ nhơn tạo (ChatGPT, Bing chat, Gemini chat…), nhắn tin vài câu, hay gọi điện hỏi vài người là ra hết cả, nên có khi phán đoán và kết luận mọi chuyện trong chớp mắt. Đáng tiếc là không phải lúc nào mạng thông tin toàn cầu cũng cho mình câu trả lời đúng. Hỏi ý kiến vài người cũng đâu chắc gì sẽ có được câu trả lời chính xác. Muốn biết tường tận một đề tài như Tao Đàn phải cần khá nhiều thời gian.
Thực vậy, nếu chỉ muốn hiểu sơ lối ngâm Tao Đàn thì nhanh nhứt là đọc sách dạy thổi sáo và ngâm thơ của hai nhạc sĩ tài danh từng là thành viên của Ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân và Nguyễn Đình Nghĩa, hay đọc những lời của Gs. Trần Văn Khê hoặc soạn giả Viễn Châu nói về lối ngâm này. Muốn tìm hiểu tường tận hơn thì phải học kỹ hơi Oán miền Nam và nghe nhiều tư liệu ghi âm của Tao Đàn trong những năm 60-75.
Các phần trình bày tổng quát về lối ngâm Tao Đàn ở trên dường như vẫn chưa đủ. Vì anh thầy dạy ngâm thơ đã khẳng định chắc như bắp rằng, hễ “nghệ sĩ gốc Bắc thì chỉ có thể ngâm ra lối Bắc”, cho nên tôi muốn kể thêm với bạn đọc một chuyện nữa: Cô Hồ Điệp thực hiện băng thơ Kiều sau năm 1980. Vì đây là một truyện thơ rất dài nên cô ấy đã ngâm hầu như đủ các lối: Lẫy Kiều, Sa Mạc và Bồng Mạc/Ru Em… Không cần nghe kỹ lắm thì cũng có thể tìm được cả Hò Huế và Tao Đàn trong đó. Một thí dụ là đoạn Kiều Thăm Mồ Đạm Tiên, cô đã chuyển sang Tao Đàn, rất là hợp tình hợp cảnh!
Ngậm Ngùi Cho Những Tinh Hoa
Nhắc tới băng ngâm thơ Kiều của cô Hồ Điệp, tôi ngậm ngùi nhớ lại: Có lẽ ở thập niên 1980 kỹ thuật thu thanh không đủ hay, ban nhạc không đủ âm sắc, cho nên giọng ngâm của cô ấy không còn được mến mộ như xưa nữa. Những tiếng đờn quá dầy (nhiều chữ) và quá to đã không nâng đỡ cho giọng ngâm mà làm giảm đi tính chất thanh tao của nghệ thuật này. Gần đây trên Youtube cũng xuất hiện vài ngâm sĩ trẻ tài ba, nghệ thuật đệm thơ và thu thanh khá hay và cũng mang nhiều màu sắc mới; tuy nhiên, tất cả hoài niệm của tôi hầu như chỉ còn lại chút bóng dáng trong 4 băng cát sét xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn: Băng Thơ Hồ Điệp 1 và 2, Băng Thơ Hồng Vân 1, và Băng Thi Nhạc Giao Duyên Tao Đàn).
Không phải chỉ có giới Cải Lương, nhiều người Sài Gòn thời đó khá quen thuộc với chuyện ngâm thơ và lại rất mê những tiếng đờn và giọng sáo đệm thơ cũng chính là nhờ cái tên “Tao Đàn”. Nhớ lại hồi mới ra nghề cô giáo dạy đờn tranh, bạn tôi có nhiều người không thích cổ nhạc nhưng lại rất thích môn thơ phú lãng mạn này. Họ mới xin tôi học đờn mà đã lo hỏi: “Không biết học bao lâu mới biết đệm ngâm thơ?”. Đó là thập niên 1980, cách đây hơn 40 năm rồi.
Ai cũng chuộng đồ mới, thường vất bỏ những đồ hư hỏng, hoặc chán thứ cũ kỹ. Người thích nhạc xưa như tôi hay bị nói móc là “cổ hủ”, “bảo thủ”, nói nhè nhẹ thì là “lỗi thời”. Vườn nhạc ở xứ mình bây giờ thì khỏi nói rồi, Tây có chi là mình có nấy, nhứt định không thua! Nhạc cũ xứ người ta có khi cả hai ba trăm tuổi mà người mình cũng cất công đổ mồ hôi bê về để làm của quý, loại này thì nhiều vô kể, đếm hổng xuể! Cũng phải, “cũ người mới ta”mà! Nhiều người cho rằng như vậy mới xứng với cuộc sống văn minh hiện đại. Có lẽ vì nhiều đồ mới quá nên phải bỏ bớt ba cái đồ cũ đi, nghe hết chịu sao xiết! Đúng là món ngâm thơ rề rà này coi bộ khó mà hợp thời, không khéo bị chê lê thê thiếu lạc quan. Tới thời Youtube ra đời là coi như hết, mấy em học trò tuổi trên 50 của tôi kể lại: “Từ lâu rồi không có show diễn ngâm thơ nữa cô ơi!”
Thiệt là ngậm ngùi cho những tinh hoa, chưa gì đã đi vào quên lãng! Chẳng riêng chi xứ Việt, nhiều nghệ thuật tinh tế trên đời này cũng có khi mới xuất hiện thấp thoáng, vừa chào đời như ánh hào quang thì đã vội phai tàn, chưa kịp ghi vô thanh sử thì đã sớm thành tro bụi! Lối nhạc-thơ nhẹ nhàng lãng mạn một thời thân thương với người Sài Gòn, giờ đã thành một thứ cổ lỗ xa xưa khó hiểu với thế hệ trẻ xứ này. Nó đang chết dần vì không cạnh tranh lại với nhiều loại nhạc mới.
Tôi ngẫm nghĩ, có thật là môn ngâm thơ này đã “không thể hợp thời” nữa? Nguyên nhân trước tiên có thể là do Thơ không phát triển, thi nhân ngày càng hiếm? Vì người trẻ chưa kịp hiểu và học hết cái hay cái đẹp của môn nhạc thuần Việt này? Hay là âm nhạc ngoại tân thời mới du nhập xứ mình có nghệ thuật cao hơn và hay hơn? Thực sự là không thể so sánh món hamburger và bún riêu! Thời ở trường nhạc (1973-1981), tôi được học ‘Tây’ nhiều hơn ‘Ta’. Thêm 30 năm cư trú nước ngoài, có dịp học hỏi thêm những cái hay của nghệ thuật âm nhạc xứ người, tôi còn dạy cả nhạc/đờn Tây cho trẻ em Việt, nhưng tôi chỉ thực sự cảm thấy rung động mỗi khi nghe thứ nhạc có hồn nước hồn nhà: Vì đó mới đúng là tiếng lòng của tôi, một người Việt Nam.
Một Lối Nhạc Đặc Sắc: Vừa Đơn Điệu Vừa Đa Điệu
Nếu như có ai hỏi tôi: Môn nhạc thuần Việt nào có nghệ thuật độc đáo mà dễ học nhứt? Tôi sẽ trả lời, đó là môn ngâm và đệm thơ bằng nhạc khí Việt. Hơn thế nữa, môn này sẽ ít bị “lỗi thời” nhứt, nếu như luôn được cập nhựt/thay đổi bằng các dòng thơ mới hơn, hợp thời hơn. Ngay cả lối đệm đờn, cũng có thể phát triển cho hay hơn nữa (nếu nắm vững các kỹ thuật truyền thống).
Giai điệu uốn lượn với nhiều hoa mỹ tỉ mỉ là đặc điểm của “nhạc đơn điệu” xứ mình (bản nhạc chỉ có một giai điệu chính), khác với lối “đa điệu” trong vài loại nhạc phương Tây (bản nhạc có ít nhất hai giai điệu). Nhạc Việt mình có lẽ chỉ có một thứ cổ truyền mà mang chất đa điệu, đó chính là môn ngâm thơ hòa với đàn sáo, trong đó thường có hai, ba bè độc lập, hòa điệu, nâng đỡ nhau như trong nhạc đa điệu cổ điển phương Tây.
Khác với lối hòa tấu trong nhạc Tài Tử/Cải Lương trong đó các bè chơi cùng một làn điệu (mỗi cây đờn có thể biến đổi làn điệu chút đỉnh, nhưng vẫn bám theo làn điệu chính là gốc), ngâm thơ rất khác: Người ngâm và nhạc sĩ hoàn toàn tự do, chỉ cần thể hiện đúng hơi nhạc, và hẹn gặp chung quanh những chữ cuối các câu trong bài thơ. Tiếng sáo thường đi một giai điệu đẹp, độc lập với giọng ngâm, tạo ra một dòng đối điệu (countermelody). Những cây đờn (tranh, tỳ hay bầu), khi thì đệm, khi thì thả ra những dòng giai điệu khác. Sáo hay đờn cũng có thể thỉnh thoàng lập lại một mẫu giai điệu từ giọng ngâm tạo ra hai bè nhạc nối gót nhau như trong nhạc đa điệu cổ điển phương Tây.
Các câu đờn tuỳ hứng thì có rơi có rụng vào vào đâu nghe cũng ‘ăn’! Các nhạc cụ đệm cần chuẩn, ít nhứt ăn nhau ở âm khởi đầu của thang âm. Quan trọng là đừng lấn át giọng ca mà phải nâng đỡ và cùng hòa về kết với giọng ngâm. Các bè thường thỉnh thoảng lại gặp nhau khi giọng hát về một chữ Xang, hoặc sau khi uốn lượn và dừng lại ở bậc Hò.
Ngày nay nhớ lại những âm thanh thấp thoáng từ xa xưa vọng lại qua những băng thơ xưa: Các bè đệm đờn tranh hay tỳ bà khi nhanh lúc chậm, nhẹ nhàng tự do rãi đều; tiếng đờn bầu như những giọt châu chìm xuống đáy hồ, đối lập với tiếng sáo bay bổng lơ lửng như tơ giăng trên tận mây xanh! Tất cả đều là tuỳ hứng, mà sao ăn vô với nhau như rất tình cờ. Kỳ lạ nhứt là dương cầm với cung bậc Tây, tưởng đâu trớt quớt mà nghe cũng đâu vô đó: Khi thì khoe âm trầm rền vang như phô trương sức mạnh với các bạn đờn Việt thấp bé nhỏ tiếng, có lúc lại trong trẻo êm ái, diễn tả cảnh“mênh mông giữa trời nước bềnh bồng” (như lời của bài thơ dưới đây).
Trong các buổi trình diễn nhạc Việt ở nước ngoài, bao giờ tôi cũng có một tiết mục ngâm thơ. Người nước ngoài thường thích lối “hát thơ” êm ái với nhịp điệu tự do này. Họ còn thích hơn nữa nếu được giới thiệu là người biểu diễn hoàn toàn ứng tác. Tôi thường giới thiệu ý chính của bài thơ. Không cần hiểu lời, người ta chỉ chú tâm nghe âm điệu và tiếng nhạc khí lạ một cách thích thú. Họ tán thưởng nhứt là khi thấy tôi vừa ngâm vừa tự đệm nhạc, giọng ca đi một đằng mà tiếng đờn giăng một nẻo. Bởi vậy lúc nào không chuẩn bị tiết mục công phu được, tôi chỉ cần đem sở trường ngâm thơ Tao Đàn ra để ru hồn mấy ông Tây bà Đầm: Người nào người nấy nghe nhạc thường lim dim cặp mắt thả hồn đi đâu không biết. Có lẽ họ mơ màng lang thang tới những dòng sông hay cánh đồng xứ Việt để qua đôi tai đón từng giọt mật tinh tế của hồn nhạc Việt Nam.
Nhớ Kẻ Trồng Cây
Lối ngâm Tao Đàn cũng như một loài hoa mới vươn mình từ đất phương Nam và đã được sự tưới tiêu, nuôi dưỡng của bao nhà thơ, và nghệ sĩ trong nhiều năm. Hạt giống của loài hoa này đã có lúc bay theo làn gió để gieo mình vào vài vùng đất nghệ thuật khác như kịch thơ, như Cải Lương để góp một làn hương mới. Có lẽ vì vậy, đối với nhiều người miền Nam một thời, hai chữ Tao Đàn đã gắn liền trong tâm tưởng với thơ, với một lối ngâm thơ.
Giới nghệ sĩ ở miền Nam thời đó ai mà không nhận ra ngâm như vậy là giống hơi Oán! Tuy nhiên, khi đưa Tao Đàn vào Cải Lương, danh ca Thanh Hải và các nghệ sĩ tiếp nối lại ngâm với lối phát âm miền Nam. Cách ngâm của bác ấy cũng có nét riêng không giống bất cứ một ngâm sĩ nào trong ban Thi Văn kia: Người ta thường pha Huế và Bồng Mạc vào giai điệu Oán, chỉ riêng bác Thanh Hải lại pha với Sa Mạc.[viii] Trong vở Hai Chiều Ly Biệt (phút 37: 00), bác Thanh Hải ngâm theo Sa Mạc gần hết câu đầu, sau đó lững lờ quẹo qua gần tới Huế, cô Ngọc Hương tiếp vô một câu Oán ngọt lịm, rồi lại trở ra Huế. Tao Đàn trong Cải Lương có thể được pha trộn một kiểu ‘kỳ lạ’ như vậy.
Cụ Út Trà Ôn cũng ngâm câu thơ vô đầu bản Vọng Cổ Ông Lão Chèo Đò (thu âm năm 1963) theo kiểu ‘chút xíu Sa Mạc’ giống y như thế; sau đó bác Phương Quang và vài nghệ nhơn trẻ khác cũng có lập lại.
Khi nghe cho kỹ như vậy, tôi thấy giọng Cải Lương của bác Thanh Hải cũng đâu có giống gì mấy với các ngâm sĩ phát âm tiếng Bắc trong chương trình Tao Đàn! Nếu không có tấm lòng ghi nhớ đến những người đi trước đã sáng tạo và phổ biến lối ngâm này, bác ấy có thể gọi lối ngâm này là “Ngâm Thanh Hải” thì cũng không ai làm gì được! Hoặc “khiêm tốn” hơn thì có thể lý luận: Cái “hơi Oán” này là vốn liếng của xứ tui, tui lấy tui xài, và kêu lại cho đúng tên là “Ngâm Oán” mới hợp lý hợp tình chớ! Có nói vậy thì cũng không ai cãi được. Nhưng bác ấy đã gọi chính xác lối ngâm này là “Ngâm Tao Đàn” và các soạn giả Cải Lương cũng ghi trong bài bản và bổn tuồng như thế. Việc làm này làm đậm nét hơn trong tâm trí tôi những câu tục ngữ nằm lòng từ nhỏ: Ăn trái nhớ kẻ trồng cây/ Uống nước nhớ nguồn…..
Biết có nhiều bạn trẻ rất thương hồn nhạc đất Phương Nam và đang muốn tìm học lại cội nguồn, tôi là người Sài Gòn, Ăn cây nào rào cây nấy, tôi viết bài này cho họ đọc, với một hy vọng mong manh: Có thể một ngày nào đó người Sài Gòn sẽ mê thơ, làm thơ và lại học ngâm nga….
Hồn thơ Tao Đàn Năm Xưa là kết tụ của bao tiếng tơ lòng trong quá khứ và cũng là giai điệu hội tụ sức sống của tiếng thơ và nhạc cả ba miền. Sau nửa thế kỷ chinh phục trái tim và đôi tai người nghe, tiếng thơ này tuy còn lưu dấu trong vài giọng ngâm mới, hay lưu trữ trên không gian ảo (cho những kẻ ghiền thơ năm nào), nhưng đã dần dần không còn thu hút được thế hệ trẻ. Hiện nay khán giả yêu thích môn ngâm thơ hầu hết là người miền Bắc, dĩ nhiên họ quen và thích nghe lối ngâm thiên về Bồng mạc hơn.[ix] Sinh hoạt văn nghệ ở miền Nam bây giờ hình như vắng lặng tiếng thơ xưa. Vật đổi, sao dời là chuyện bình thường trong cõi nhơn gian, chỉ tiếc cho một nghệ thuật đặc sắc của miền Nam đã mất đi chỗ đứng trong tâm hồn của con cháu những người đã khai sinh và nuôi dưỡng nó.
Hồn thơ theo gió về đâu,
Trăng chờ, trăng đợi, bạc màu thời gian
Đặng Kim Hiền
2023
[i] Phạm Công Luận (2017). Sài Gòn – Chuyện Đời của Phố: Chương trình ngâm thơ Tao Đàn. Thanh niên 7 tháng 2 2017.
https://thanhnien.vn/sai-gon-chuyen-doi-cua-pho-chuong-trinh-ngam-tho-tao-dan-185626276.htm
[ii] Tô Kiều Ngân (2002). Tự Học Thổi Sáo Trong 30 Ngày. Hà Nội : Nxb Thanh niên , trang 53 ; và Tô Kiều Ngân (2005). Tự Học Thổi Sáo, Ngâm Thơ và Đệm Sáo Theo Thơ. Hà Nội : Nxb Âm nhạc, trang 105.
[iii] Nguyễn Đình Nghĩa (2000?).Phương Pháp Tự Học Thổi Sáo và Ngâm Thơ. Hà Nội : Nxb Thanh niên, trang 58-59.
[iv] Nhận xét này chỉ là ý của riêng tôi, khi thử phân tích từng rẻo nhạc thật nhỏ thì thấy rõ như vậy.
[v] Trần Văn Khê (2004). Vietsciences phỏng vấn GS TS Trần Văn Khê.
http://vietsciences.free.fr/vongtaylon/profs/phongvangstranvankhe
[vi] Đổ hột không chỉ có trong Ca Trù và hát Quan họ (ai cũng biết cả 2 loại này đều có đầy đổ hôt), mà trong Ca Tài Tử cũng có. Các bản ghi âm nhiều giọng ca các nghệ nhơn nổi tiếng ngày xưa còn lưu lại tới nay như ông Năm Nghĩa, cô Mười Tân Châu, cô Bach Huệ cho thấy mỗi ca nhơn này có những kỹ thuật đổ hột đặc biệt của riêng họ. Những kỹ thuật này tiếc rằng không được lớp trẻ sau này kế thừa.
[vii] Thanh Hiệp (2014). Nghệ Sĩ Thanh Hải, Vua Tao Đàn từ trần, báo Người Lao Động (16/09/2014) https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/nghe-si-thanh-hai-vua-ngam-tao-dan-tu-tran-2014091614464998.htm
[viii] Nghệ sĩ (chuyên ngâm thơ) thường chuyển điệu từ Tao Đàn qua Sa Mạc nguyên một đoạn hay vài câu lẻ (và chấm dứt luôn ở Sa Mạc), chứ không pha trộn như kiểu của bác Thanh Hải.
[ix] Lối ngâm của cô Trần Thị Tuyết (trong đa số bài) được xem là tiêu biểu cho cách ngâm thơ thiên về Bồng Mạc; thỉnh thoảng cô cũng ngâm Sa Mạc. Các ngâm sĩ thế hệ trẻ hơn ở miền Bắc như nghệ sĩ Thuý Mùi, rất nổi tiếng bằng giọng điệu Bồng Mạc, nhưng cô thường pha trộn phong phú hơn, đôi khi cũng có thoảng nét Tao Đàn hơi Oán.